Dự đoán thị trường lao động chưa bao giờ là một việc dễ dàng. Tuy nhiên, những động lực độc đáo của thị trường lao động Mỹ sau đại dịch COVID-19 khiến các nhà kinh tế khó xác định hơn liệu sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp gần đây có dự báo vấn đề trong tương lai hay không?
Dữ liệu việc làm phi nông nghiệp dự kiến sẽ được công bố vào thứ Sáu có thể làm nóng cuộc tranh luận này thêm, thị trường dự kiến rằng số lượng việc làm phi nông nghiệp của Mỹ trong tháng Bảy sẽ tăng thêm 185,000, thấp hơn mức 206,000 của tháng Sáu, và tỷ lệ thất nghiệp sẽ duy trì ở mức 4.1%. Đáng chú ý, báo cáo việc làm trong 18 tháng qua thường vượt dự đoán của thị trường.
Phó Chủ tịch phụ trách chiến lược đầu tư tại Glenmede, Mike Reynolds, cho biết: “Nếu Cục Dự trữ Liên bang (Fed) muốn hạ cánh mềm, thì thị trường lao động phải chỉ suy yếu vừa phải và không có khả năng mất kiểm soát và rơi vào vòng xoáy phản hồi tiêu cực.”
Tỷ lệ thất nghiệp đã tăng từng tháng trong ba tháng qua và hiện đang tiệm cận mức kích hoạt chỉ báo suy thoái do cựu kinh tế gia của Fed, Sam, đặt ra, chỉ báo này đã có hồ sơ hoàn hảo trong nửa thế kỷ qua. Quy tắc Sam cho rằng khi tỷ lệ thất nghiệp trung bình trong ba tháng cao hơn 0.5 điểm phần trăm so với mức thấp nhất trong 12 tháng, nền kinh tế rơi vào suy thoái.
Cuộc “trận chiến quan trọng đầu tiên” của Fed trong việc giảm lãi suất vào tháng Chín Trong nửa đầu năm 2024, số lượng việc làm tăng trung bình mỗi tháng là 203,000, và khi ngày càng nhiều công nhân tham gia thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, và mức độ những người được coi là thất nghiệp nhưng đang tìm việc hoặc tạm thời bị sa thải đạt mức cao nhất kể từ tháng 10 năm 2021.
Chủ tịch Fed, Powell, vào thứ Năm đã chỉ ra rằng các quan chức hiện đang chuyển trọng tâm về lạm phát sang nhiệm vụ kép của họ, khoảng cách cung cầu trên thị trường lao động trước đó đã gần cân bằng. Hiện tại, tỷ lệ giữa vị trí trống và lao động sẵn có chỉ là 1.2:1, trong khi vài năm trước, khi lạm phát gia tăng, tỷ lệ này là 2:1.
Nếu những yếu tố này tiếp tục duy trì sự cân bằng, và các chỉ số lạm phát khác cho thấy sự tiến bộ, Powell đã mạnh mẽ gợi ý rằng có thể sẽ giảm lãi suất vào tháng Chín.
Ông nói tại buổi họp báo sau cuộc họp chính sách của Fed: “Niềm tin của chúng tôi đang gia tăng vì chúng tôi đang nhận được dữ liệu tốt. Thẳng thắn mà nói, tình trạng yếu kém của thị trường lao động khiến bạn tin tưởng hơn rằng nền kinh tế không quá nóng.”
Phố Wall ngày càng nhất trí yêu cầu Fed bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, vì hầu hết các chỉ số đều cho thấy tỷ lệ lạm phát đã gần đạt mục tiêu 2% của Fed. Jeffrey Gundlach, CEO của DoubleLine Capital, được mệnh danh là “Vua trái phiếu mới”, đã chỉ ra vào thứ Tư rằng ông tin rằng nền kinh tế Mỹ đang ở rìa suy thoái. “Khi nhìn lại hôm nay, tôi tin rằng vào tháng Chín năm 2024, chúng ta sẽ nói rằng chúng ta đang ở trong suy thoái.”
Giám đốc nghiên cứu kinh tế Bắc Mỹ của Indeed Hiring Lab, Nick Bunker, cho biết: “FOMC trì hoãn việc giảm lãi suất, cược rằng thị trường lao động đủ mạnh để chờ đến mùa thu xác nhận lạm phát sẽ quay trở lại mức 2%.”
Như mọi khi, thị trường cũng sẽ chú ý đến phần tiền lương trung bình trong báo cáo để tìm kiếm dấu hiệu lạm phát tiềm ẩn. Thị trường dự kiến mức tăng lương hàng tháng trong tháng Bảy sẽ là 0.3%, và mức tăng hàng năm sẽ là 3.7%. Nếu dự đoán này đúng, đây sẽ là mức tăng thu nhập thấp nhất kể từ tháng Năm năm 2021. Chiến lược gia đầu tư BeiChen Lin của Russell Investments cho biết:
“Ngay cả khi báo cáo này cho thấy áp lực tiền lương không đổi hoặc tăng nhẹ, chúng tôi tin rằng tiến bộ mà Fed đạt được về lạm phát cho đến nay có nghĩa là nếu các dữ liệu tiếp theo (như CPI tháng Bảy) phù hợp, Fed vẫn có thể có cơ hội giảm lãi suất vào tháng Chín.”
Báo động kêu vang, nhưng lần này thì khác? Hiện tại, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã tăng từ mức thấp 3.4% vào đầu năm 2023 lên 4.1% vào tháng Sáu. Thị trường dự đoán rằng, ngay cả khi tốc độ tăng lương chậm lại, tỷ lệ thất nghiệp vẫn sẽ duy trì ở mức tháng Bảy. Mặc dù vậy, sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp gần đây đã làm tăng thêm tranh luận về mức lãi suất.
Các chỉ báo cảnh báo truyền thống khác, chẳng hạn như việc làm tạm thời và tỷ lệ nghỉ việc, cũng đã liên tục phát ra tín hiệu cảnh báo. Nhưng nhiều nhà dự đoán cho rằng có lý do để giải thích sự suy giảm gần đây của những chỉ báo này là dấu hiệu thị trường lao động nóng bỏng sau phục hồi từ đại dịch đang bắt đầu nguội đi, nền kinh tế đang trở lại bình thường.
Kinh tế gia Michael Reid của RBC Capital Markets tại Mỹ cho biết: “Đây không phải là một chu kỳ kinh doanh truyền thống, tốc độ thay đổi có thể khá lừa dối.”
Powell, khi được hỏi về cái gọi là “Quy tắc Sam” tại cuộc họp báo vào thứ Năm, cho biết các nhà hoạch định chính sách “cho rằng những gì chúng tôi đang thấy là sự bình thường hóa của thị trường lao động,” nhưng nếu “bắt đầu cho thấy những dấu hiệu không chỉ là thế, thì chúng tôi đã sẵn sàng để đối phó.”
Hiện tại, nhiều người dự đoán rằng Fed sẽ bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ vào tháng Chín. Nhưng trong những tuần gần đây, một số nhà kinh tế nổi tiếng, bao gồm cựu Phó Chủ tịch Fed Blinder, kinh tế gia trưởng của Goldman Sachs Hatzius và cựu Chủ tịch Fed New York Dudley, đã khuyến nghị tăng lãi suất sớm hơn, một phần vì những phát triển mới nhất của thị trường lao động.
Một giải thích nhẹ nhàng hơn về sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp gần đây là: trước đó, nhập cư bị hạn chế nghiêm ngặt, hàng triệu người Mỹ đã rời khỏi thị trường lao động trong đại dịch, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp một cách giả tạo. Kể từ đó, khi những xu hướng này đảo ngược, tỷ lệ tham gia lao động đã phục hồi, điều này có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp đang trở lại mức độ mà lẽ ra sẽ chiếm ưu thế.
Các chỉ số khác cũng có tình hình tương tự, chẳng hạn như số lượng vị trí trống, đã giảm gần một phần ba kể từ khi đạt đỉnh 12.2 triệu hai năm trước. Mặc dù sự thay đổi trong số lượng vị trí trống là đáng kinh ngạc, đạt 8.2 triệu, nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với mức trước đại dịch COVID-19. Số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp cũng vậy, mặc dù gần đây đã tăng lên, nhưng vẫn ở mức thấp lịch sử.
Powell cho biết vào thứ Năm: “Trong thời kỳ hậu đại dịch này, nhiều quy tắc rõ ràng đã bị bỏ qua. Nhiều trí tuệ được chấp nhận không còn hoạt động nữa, bởi vì tình hình thực sự rất khác thường.”
Tuy nhiên, thị trường có thể không chấp nhận điều này. Blake Gwinn, Giám đốc chiến lược lãi suất Mỹ tại RBC Capital Markets, viết trong một báo cáo cho khách hàng vào thứ Hai rằng nếu “Quy tắc Sam” được kích hoạt, sự kiện này sẽ thúc đẩy tình cảm tiêu cực tăng cao, và thị trường sẽ nhanh chóng tiêu hóa khả năng nền kinh tế hạ cánh cứng.
Hiện tại có một điều rõ ràng: khi nền kinh tế phục hồi nhanh chóng từ cú sốc ban đầu của đại dịch COVID-19, công nhân đã mất đi lợi thế hiếm hoi trong những năm gần đây. Những người tìm việc hiện cần thời gian lâu hơn để tìm được một công việc mới, và tốc độ tăng lương gần như trở lại mức trước đại dịch.
Sarah House, kinh tế gia cao cấp của Wells Fargo, cho biết: “Dù chúng ta đã vượt qua ngưỡng suy thoái hay chưa, chúng ta đều đã thấy sự thực sự nguội lạnh của thị trường lao động. Hướng phát triển hiện tại không thuận lợi.”
Giá vàng nhắm tới mức cao lịch sử? Đối với vàng, Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities, cho biết, rủi ro địa chính trị đã thúc đẩy nhu cầu đối với tài sản trú ẩn, nhưng đà tăng của giá vàng hiện tại phần lớn được hỗ trợ bởi sự suy yếu của đồng đô la.
Ghali tin rằng: “Rủi ro địa chính trị đã thúc đẩy nhu cầu đối với tài sản trú ẩn, nhưng trừ khi tình hình tiếp tục leo thang, đà tăng của giá vàng hiện tại phần lớn được hỗ trợ bởi sự suy yếu của đồng đô la và mua mạnh từ thị trường trái phiếu, chứ không phải nhu cầu đối với bản thân vàng. Điều này thực ra cho thấy bối cảnh lưu động của vàng không thực sự thuận lợi.”
Ngoài ra, bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy tình hình địa chính trị ở Trung Đông hạ nhiệt đều có thể gây tổn hại lớn cho phe mua vàng, dòng tiền trú ẩn đảo chiều có thể buộc các nhà quản lý quỹ thanh lý vị thế, nếu hợp đồng tương lai vàng chủ chốt quay trở lại mức 2400 USD, điều này có thể ngược lại thúc đẩy hành động bán tháo quy mô lớn của những người theo xu hướng CTA.
Ngoài ra, sự mạnh lên của các đồng tiền châu Á thực sự đang phá hoại nhu cầu đối với kim loại quý như một công cụ phòng ngừa sự giảm giá của tiền tệ trong khu vực này, điều này đã là động lực chính cho mức cao kỷ lục gần đây của vàng. Người mua châu Á vẫn đang ở trạng thái “đình công”, và động lực này đã kích thích sự thèm muốn dường như “không bao giờ đủ” của họ đối với vàng ngay từ đầu.
Về mặt kỹ thuật, các nhà phân tích của FXStreet cho rằng nếu dữ liệu việc làm phi nông nghiệp và tốc độ tăng lương bất ngờ yếu đi, điều này có thể thúc đẩy thị trường đặt cược vào việc Fed giảm lãi suất 50 điểm cơ bản vào tháng Chín và kích hoạt một đợt tăng giá mới cho vàng.
Trong tình huống này, giá vàng có thể kiểm tra lại mức cao ngày 18 tháng 7, tức là 2475 USD, và mức cao lịch sử 2484 USD sẽ trở thành tiêu điểm.
Tuy nhiên, người mua vàng cần phải đứng vững trên mức 2450 USD để tiếp tục tăng. Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI) trong 14 ngày đang dần tăng lên, trên mức 50 điểm, hiện gần mức 61.75, điều này cho thấy rủi ro tăng giá của vàng vẫn duy trì.
Ngược lại, nếu dữ liệu việc làm phi nông nghiệp mạnh hơn dự đoán của thị trường, làm mất đi hy vọng lớn về việc giảm lãi suất của Fed, giá vàng có thể giảm mạnh xuống mức hỗ trợ 2425 USD. Mức hỗ trợ tiếp theo sẽ là đường trung bình động đơn giản (SMA) 21 ngày ở mức 2410 USD, nếu mất hỗ trợ này, vàng có thể giảm xuống mức hỗ trợ 2370 USD.